“Tiếng Việt từ TK 17: vài nhận xét về bản quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh - phần 44A”

“Tiếng Việt từ TK 17: vài nhận xét về bản quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh - phần 44A”

Thứ năm - 16/05/2024 02:33
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua
lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông
truyền đạo.

Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La
Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn
cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay
Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài
liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và
bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN),
(b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử
Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là
Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang
http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=
false. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Sấm Truyền Ca (STC), Lập
Quốc Kinh (LQK), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), ĐNA (Đông Nam Á), LM (Linh Mục),
CG (Công Giáo), PG (Phật Giáo), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc
Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ
Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm
Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận
Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị
Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), P (tiếng Pháp), A (tiếng
Anh), L (tiếng La Tinh), VNTĐ (Việt Nam Tự Điển/Hội Khai Trí Tiến Đức), TNNL (Thiên
Nam Ngữ Lục) …v.v… Kí, kì còn có thể viết là ký/kì (Kí ~ tên người, tên sách) và
trang/cột/tờ của VBL được trích lại từ bản La Tinh để người đọc tiện tra cứu thêm.
1. Giới thiệu tổng quát
Qua sự giới thiệu của PGS TS Đoàn Lê Giang và LM Võ Tá Khánh (4/2024), người viết
(NCT) nhận được quyển sách đối chiếu Sấm Truyền Ca bằng chữ quốc ngữ (pdf) - xem chi
tiết ở Tài liệu tham khảo/mục 14. Theo tác giả Phan Văn Cận thì nguyên bản STC bằng chữ
Nôm do thầy cả Lữ Y Đoan soạn năm 1670, ông đã phiên ra chữ quốc ngữ từ năm 1816 đến
năm 1820. Tác giả Paulus Tạo còn ghi nhận ảnh hưởng của các LM Pháp khi ông chép lại
STC (khoảng 1885). Chính các năm trên (1670, 1816-1820, 1885) đã gợi ý cho người viết
dựng một khung thời gian quy chiếu để khảo sát các tài liệu chép tay này thuận lợi hơn. Phần
này ghi lại bốn mốc thời gian quan trọng để có thể xác định STC liên hệ đến giai đoạn nào,
dựa vào các cách dùng trong STC. Ảnh hưởng của Kinh Dịch khá rõ nét trong các tác phẩm
Hán Nôm thời trước, và cũng trong tinh thần của nội dung STC, người viết (NCT) sẽ chú
trọng đến cách dùng thì HV và thời để thử xem STC được soạn và cập nhật qua các thời kì
nào. Chữ thì và các biến âm chừ, giờ, giây, thời có phạm trù nghĩa rộng và sâu: Kinh Dịch
từng viết là "Chu Dịch nhật bộ thư, khả nhất ngôn nhi tế chi, viết: thì (thời)" - tạm dịch/NCT
cả bộ Kinh Dịch có thể nói gom lại thành một lời/chữ là thời. Bài này chú trọng vào chữ thì
và thời (kỵ huý vua Tự Đức - xem mục 1.3 bên dưới). Đây chỉ là một trong các tiêu chí cho ta
khả năng xác định phần nào ngôn ngữ và thời đại của người soạn/cập nhật STC/LQK hay
người chép lại ...
1.1 Từ điển Việt Bồ La, Phép Giảng Tám Ngày (1651)
Các cách dùng xuất hiện trong STC và cũng có mặt trong VBL và PGTN:
a) Sấm truyền (lời tiên tri, sấm truyền/sách thánh là cách dùng cũ so với kinh Thánh bây giờ).
Sấm truyền xuất hiện 1 lần trong VBL và 16 lần trong PGTN. Sấm Truyền từng là một quyển
kinh dịch ra tiếng Việt (có thể là chữ Nôm?) lưu truyền ở Đàng Trong, theo nội dung lá thư
ngày 22/8/1731 của LM Alexandre de Alexandris: để ý tựa đề là Sấm Truyền chứ không phải
là Sấm Truyền Ca, và có thể đặt nghi vấn về tác giả của STC có phải là LM Lữ Y Đoan hay
không - trích từ bài viết "Linh mục Louis Đoan và Sấm Truyền Ca" của LM Đào Quang Toản
(24/11/2023).
b) Sinh thì (~ qua đời, chết)
c) Hằng ngày dùng đủ (ghi lại hai lần: mục dùng và mục đủ – VBL, Kinh Lạy Cha)
d) Thậm (~ rất)
e) Cả và (~ tất cả, cả)
f) Của ăn (~ đồ ăn)
g) nhắc (VBL ghi đi nhắc, Béhaine/Taberd/Theurel/ĐNQATV ghi nhúc nhắc, STC ghi cà
nhắc so với tiếng Việt hiện đại). Các cách dùng tương tự có thể là một tiêu chí thú vị để xác
định thời kỳ soạn/chép lại STC - tiêu chí này không nằm trong phạm vi bài viết này.
h) Vô thường
i) Đang thì 2 (thời xuân xanh, thời trẻ)

PGTN trang 235

i) Tức thì
…v.v…
VBL và PGTN chỉ ghi dạng thì, không ghi dạng thời. Các bản Nôm của Maiorica cũng cho
thấy dạng thì 時. Để ý dạng tức thì xuất hiện 3 trong VBL một (1) lần và 20 lần trong PGTN.
1.2 Tự điển của Béhaine (1772/1773), Taberd (1838)

Tự điển Béhaine (1772/1773) - Taberd ở Đàng Trong chép lại hoàn toàn mục tức. Theurel
(1877 - Đàng Ngoài) cũng ghi tức thì, thêm 2 cách dùng tức khắc và lập tức (cùng nghĩa).

Béhaine/Taberd/Theurel đều ghi dạng đang thì như PGTN hàm ý tuổi xuân (thời còn trẻ).
Các cách dùng xuất hiện trong STC và cũng có mặt trong tự điển Béhaine và Taberd:
a) Kinh Thánh
b) Tuần (bắt đầu mang nét nghĩa 7 ngày, cũng còn nghĩa 10 ngày như VBL/PGTN)
c) Ngày thứ bảy 4 (bây giờ là ngày Chúa Nhật/Chủ Nhật)
…v.v…
Tự điển của LM Béhaine (1772/1773), Taberd (1838) không ghi dạng thời, tuy nhiên tự điển
của LM Theurel (1877, Kẻ Sở - Đàng Ngoài) dựa vào công trình/tự điển của Béhaine/Taberd
(Đàng Trong) có ghi dạng thời và mốc thời gian ra đời (1860), học giả Huỳnh Tịnh Của ghi
chi tiết thêm về nguyên nhân thay đổi là 'mắc quốc huý mà đọc trại" (ĐNQATV, 1895):

Ở Đàng Ngoài, dạng thì có mặt thường xuyên trong các bản văn bằng chữ quốc ngữ vào cùng
thời kì (cuối TK 18, đầu TK 19). Thí dụ như trong các tài liệu chép tay của cụ Philiphê Bỉnh
chẳng hạn:

Trang 19 – Sách sổ sang chép các việc (Philiphê Bỉnh, 1822): Ngô Thì Nhậm 吳時任 (1746-1803) ghi là Ngô
thị Nhậm, so với cách gọi Ngô Thời Nhiệm sau này. Nên nhớ rằng Philiphê Bỉnh (1759-1833) sống cùng thời
với Ngô Thời Nhiệm, đây là lần đầu tiên tên ông được viết bằng chữ quốc ngữ, các dạng này cho ta nhiều thông tin hữu ích.(5)

Trang 30, bản chép tay Các Điều Ngắm của LM Philiphê Bỉnh, ghi thì thế (~ thời thế). Các
tài liệu chữ quốc ngữ ở Đàng Trong và Đàng Ngoài cho thấy dạng thời không có mặt vào
cuối TK 18 và đầu TK 19, cũng như vào TK 17 (dựa vào VBL/PGTN và các thư/tài liệu viết
tay bằng chữ quốc ngữ cùng thời ...).
1.3 Kỵ huý vua Tự Đức (từ khoảng năm 1860 cho chữ quốc ngữ)
Thì HV 時 trùng với tên của vua Tự Đức (1829-1883) - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪
任), khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thì (阮福時) - cho nên chữ Nôm phải viết khác
hơn dạng 時 và âm thì phải đọc trại ra thành thời.
Vì kỵ huý 5 mà chữ Nôm thì viết khác hơn, các dạng khác nhau có thể là
Bộ nhật ở bên phải thay vì bên trái
Bộ nhật ở trên thay vì ở bên trái
Dùng chữ thìn 辰
Bỏ nét giữa của chữ nhật
Bỏ hẳn chữ/bộ nhật để chữ thì trở thành chữ tự 寺 (thành phần hài thanh của chữ thì)
…v.v…
Một điểm nên nhắc ở đây là cần phải thận trọng vì dễ lẫn lộn giữa cách viết cổ hơn hay dị
thể/giản thể với chữ kỵ huý: thí dụ như thì có các dạng khác là Ngoài ra nên kể đến Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca, gồm 1027 câu thơ lục bát soạn xong vào
năm 1870. Tác phẩm Nôm này, được soạn từ lệnh vua Tự Đức, hoàn toàn không dùng chữ
thì/thời hay vần thì, vần thời. Điều này cho thấy thời vua Tự Đức quy định kỵ huý (quốc huý)
rất nghiêm ngặt. Xem lại các cách đọc của chữ thì 時, có dạng cổ (chữ hiếm) là 旹 với 㞢 là
chi 之 (thanh mẫu thường 常, vận mẫu chi 之 bình thanh) có các cách đọc theo phiên thiết
市之切 thị chi thiết (TVGT, NT, ĐV, QV, TV, VH, TTTH, LTCN 六書正譌) - TVGT ghi
(chữ 時) 从日寺聲 tòng nhật tự thanh, và (chữ 旹) 从日㞢作 tòng nhật chi tác.
辰之切 thần chi thiết (CV, Trùng Đính Trực Âm Thiên/TĐTAT)
上紙切 thượng chỉ thiết (VB)
TNAV ghi vận bộ chi tư 支思 (dương bình) - để ý các nguyên âm i (chi, thì), ư và ai (tư, tai)
CV ghi cùng vần/bình thanh 時 旹 塒 蒔 漦 鰣 匙  提 (thì để) - để ý các nguyên âm i (thì)
và ê (đề, để).
禪侍切 thiện thị thiết (TViB)
土紙切, 音氏 thổ chỉ thiết, âm thị (TVi)
施持切, 音匙 thi trì thiết, âm thi (CTT)
時吏切 thì lại thiết, âm thệ  音逝 (TVi)
Giọng BK bây giờ là shí (theo pinyin) so với giọng Quảng Đông si4 và các giọng Mân Nam
客家话 [客英字典] shi2 [沙头角腔] si2 [梅县腔] she2 shi2 [宝安腔] si2 [客语拼音字汇]
si2 [陆丰腔] shi3 [台湾四县腔] sii2 [海陆腔] shi2 [东莞腔] si2, 潮州话 si5, tiếng Nhật shi
và tiếng Hàn si.
...v.v...
Phụ âm đầu lưỡi xát /ʂ/ (viết là sh-, đọc theo giọng Nam) của giọng Bắc Kinh/BK bây giờ
tương ứng với phụ âm đầu lưỡi tắc /tʰ/ (viết là th- tiếng Việt) như shàng, shǒu, shuǐ, shí (BK)
- thượng, thủ, thủy, thì (HV). Trong trường hợp của tương quan shí (BK) - thì (HV): để ý là
vào TK 17 (thời VBL), phụ âm xát s(h)- chưa hoàn toàn đổi thành phụ âm tắc t(h)- như các
dạng dùng tương đương vi sang - vi thang, lơ xơ/lơ thơ, Thuận (Thŏận) Hóa/Sinua, sự - thờ
(sự thượng đế ~ thờ vua trên/VBL)... Thành ra ngoài dạng thì 6 , tiếng Việt còn bảo lưu một số
phụ âm mặt lưỡi qua dạng ch- và gi-, td. giờ, chừ, giây (so với các vận bộ ghi trong TNAV và CV ở bên trên) ...v.v… Không có bản Nôm STC/LQK nên bài viết này tập trung vào chữ
quốc ngữ qua các bản chép tay (sđd).
1.4 Khoảng đầu TK 20 (td. bản STC năm 1910)
Mốc thời gian thứ tư là vào khoảng đầu TK 20 khi một số lớn thuật ngữ khoa học kỹ thuật
Tây phương nhập vào tiếng Việt, và đặc biệt là vào năm Kỷ Mùi (1919) khi kỳ thi Nho học
cuối cùng ở VN được tổ chức ở Huế (ngoài Bắc thì bỏ thi Hương năm 1915). Ảnh hưởng của
chữ quốc ngữ (và tiếng Pháp) đã lan rộng từ Đàng Trong; thí dụ như Truyện Kiều đã có các
bản bằng chữ quốc ngữ như của học giả Trương Vĩnh Ký (Sài Gòn, 1875), Abel des Michels
(Hà Nội, 1884/1885), Edmond Nordemann (Hà Nội, 1897), Kiều Oánh Mậu (Hà Nội, 1902)
...v.v... Các cách dùng xuất hiện trong STC và LQK so với tiếng Việt hiện nay (năm 2024):
a) Lạc viên ~ Ê Đen, Yên Đan ~ vườn vui vẻ/TGTN, vườn diệu quang (Béhaine/Taberd Đàng
Trong, Philiphê Bỉnh Đàng Ngoài) ~ vườn địa đàng
b) Thời đại
c) Thời gian
d) Chu kỳ (~ chu kì)
e) Không gian
f) Thị trường
g) Tự do
h) Tâm lý
i) Nhậu (uống) - nhậu nước ~ uống nước là cách dùng vào thời Béhaine/Taberd, bây giờ thì
không ai dùng nhậu nước (uống nước), nhậu chè (uống chè). Để ý STC dùng ăn nhậu (theo
nghĩa hiện đại - có mặt trong ĐNQATV). Khuynh hướng đổi nghĩa theo thời gian là một tiêu
chí để xác định thời kỳ soạn văn bản STC nhưng không nằm trong phạm vi bài này:
Lấy tiền ăn nhậu, sống còn mặc ai (STC câu 2426)
j) Ngũ châu
k) Phát ngôn viên
l) Giải phóng
m) Vợ nhỏ (VBL ghi vợ lẻ, vợ mọn, thiếp)
n) Bá láp bá xàm
…v.v…

8
Phương ngữ Đàng Trong vào thời cận đại thể hiện rất rõ nét trong STC và LQK, thí dụ như
các câu sau (Nguyễn Văn Nhạn 20/12/1956):
Nhớ ngày thứ bảy dành riêng thờ trời (LQK câu 1516)
Là ngày tất cả xả hơi
Ngoài thì đồng áng trong thời gia trang (LQK câu 1518)
...
Thịt con bò bị chết kia (LQK câu 1631)
Sả đôi, hai chủ đem vìa mà ăn

Xả hơi, xả khói, xổ hơi là làm cho hơi thoát ra theo cụ Huỳnh Tịnh Của vào thập niên 1890
(ĐNQATV), chưa mang nét nghĩa mở rộng là nghỉ mệt (không làm việc) như ý của câu 1517.
Vìa (~ dìa, dề - khuynh hướng ngạc hoá của âm về) là phương ngữ miền Nam VN, vẫn còn
nghe thấy hiện nay. Đây cũng là một tiêu chí quan trọng để khảo sát STC và LQK, tuy nhiên
không nằm trong phạm vi bài viết này. Bài viết này chú trọng vào vần thời của các câu này
như B1 là trời, B2 là hơi và B3 là thời - phần sau sẽ đi vào chi tiết thêm.
2. Vần thì và vần thời trong thơ lục bát
Một cấu trúc cơ bản của thể thơ lục bát là dựa vào thanh bằng (tắt là B gồm có dấu huyền và
không dấu) và thanh trắc (tắt là T, gồm các dấu hỏi, sắc, nặng, ngã):
B B B T T B B B1
B B B T B B2
B B B T T B3 B B
Hay một biến thể như bên dưới, tuy nhiên vẫn tuân thủ vần B1 - B2 - B3: thí dụ như nguyên
âm -i của vần thì có độ mở miệng nhỏ, phù hợp với các nguyên âm -e, -ê (hay ia) thường gặp
trong thơ lục bát. Các chữ B1, B2 và B3 phải hợp vần như câu 2582 đến câu 2584 trong STC
Ăn ngon mặc ấm mở màng hồ ly (BBTTTBB B1) B1 = ly
Ngắm xem Du-Tiệp xuân thì (TBBTB B2) B2 = thì
Mày râu đĩnh ngộ, nết đi hào hùng (BBTTTBB B3) B3 = đi
Vì kỵ huý vua Tự Đức, chữ thì phải thay đổi (chữ viết hay âm đọc), tuy nhiên nếu nằm trong
trường hợp B1, B2 và B3 thì cả ba chữ phải đổi cho hợp vần. Điều này rất khó cho tác giả
(soạn giả) vì ba (3) chữ cùng một vần và trong câu văn khác nhau, không đơn giản (và tự do)
như chỉ đổi một chữ ở các vị trí khác hơn B1/B2/B3. Nếu có thay đổi một chữ vì kỵ huý thì
hai chữ kia vẫn còn giữ vần nguyên thuỷ (td. giấu đầu lòi đuôi/NCT). Nhờ vào cấu trúc khá(9)
ổn định này (td. vần thì, vần thời) trong thể thơ lục bát mà ta có khả năng xác định chính xác
hơn thời kì xuất hiện 7 của văn bản dựa vào các dạng thì và thời (kỵ huý).
2.1 Vần thì trong Thiên Nam Ngữ Lục (TNNL, khoảng cuối TK 17)
TNNL (sđd) có 8136 câu thơ lục bát bằng chữ Nôm, 2 bài thơ Nôm và 31 bài thơ chữ Hán.
TNNL không dùng vần thời, thí dụ một vần thì từ câu 428 đến câu 430 trong 91 vần thì (và
khoảng 101 chữ thời cùng trên 20 chữ thì mà người viết/NCT đã khảo sát) cho thấy cấu trúc
B1/B2/B3 rất chặt chẽ:
Biên danh tràng áo để người làm bia (câu 428) B1=bia, B2=chi, B3=thì
Nhẫn chi ai lại điều chi,
Dưới thì đất xét, trên thì trời soi (câu 430)
...v.v...
Ngay cả một bài thơ chữ Hán (trước câu 4715) trong TNNL trích từ Tam Quốc Chí theo thể
thất ngôn Đường luật cũng có vần thì
Tích nhật A Man tá Hán thì
Khi tha quả phụ dữ cô nhi
Thuỳ tri tứ thập niên thiên hạ
Quả phụ cô nhi tái bị khi

Vần thì trong TNNL (không dùng vần thời) dẫn đến một khả năng là bản Nôm này đã soạn
trước thời vua Tự Đức, hay nguyên bản chưa bị ‘nhuận sắc’ hay sao chép lại sau thời kỵ huý
này. Có trường hợp dùng vần thời trong TNNL (câu 4584) theo quán tính của tiếng Việt cận
đại, tuy nhiên lại lạc vận so với vần thì (âm cổ hơn):

Câu 4582 B1 = bì
Câu 4583 B2 = kỳ
Câu 4583 B3 = thời - đáng lẽ là âm thì (độ mở miệng nhỏ) thì hợp vận. Có lẽ cách dùng
thời đã quá phổ thông vào thế hệ trước cho đến ngày nay, cho nên các học giả Nguyễn Lương
Ngọc/Đinh Gia Khánh (sđd) theo phản xạ tự nhiên mà phiên âm là thời.
2.2 Truyện Kiều và vần thì (khoảng đầu TK 19)
Truyện Kiều chữ Nôm có 3254 câu, chữ thì xuất hiện 94 lần so với vần thì xuất hiện 6 lần, thí
dụ như câu 62 đến câu 64 (bản Nôm 1866)
淡僊娘初兒
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi (câu 62)
浽名才色没時
Nổi danh tài sắc một thì (câu 63)
吨嗃外劎之燕鸚
Xôn xao ngoài cửa kém gì yến anh (câu 64)
...v.v...
Cả 6 vần thì đều hợp vần -ì (như gì, thì, chi, đi, về, kia ...) khác hẳn với vần -ời (như trời,
dời, nơi, lời, người, đời ...) - thí dụ như các câu 2946 đến 2498 bản Nôm 1866:
湄㐌別番対移
Nắng mưa đã biết mấy phen đổi dời? (câu 2946)
俸体詔
Năm mây bỗng thấy chiếu trời (câu 2947)
欽頒勑旨旦尼停停
Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành (câu 2948)
...v.v...
Từ cách dùng vần thì 時 trong Truyện Kiều (không dùng vần thời), ta có cơ sở để đưa đến kết
luận là Truyện Kiều đã được soạn ra trước 8 thời vua Tự Đức.
2.3 I Nê Tử Đạo Vãn (in năm 1838 - Đàng Trong)
I Nê Tử Đạo Vãn (viết tắt là INV) là truyện viết theo thể lục bát 9 gồm có 566 câu bằng chữ
quốc ngữ, in trong phần sau của cuốn tự điển La Tinh - Việt tác giả LM Taberd 10 (1838). Đặc
biệt là có phần dịch ra tiếng La Tinh, Anh và Pháp cho nên rất dễ kiểm tra cách dùng trong
truyện. Cũng như tự điển Việt - La Tinh (1838), tự điển La Tinh - Việt này không có dùng
dạng thời mà chỉ có dạng thì. INV cũng không dùng dạng thời, vần thì xuất hiện hai (2) lần
trong trang 133 và 111 so với chữ thì xuất hiện 29 lần.

INV trang 133 (sđd)

INV trang 111 (sđd)

Một điểm đáng nêu lên ở đây là cách kí âm tên ngoại quốc bằng chữ quốc ngữ trong INV: có
khuynh hướng dùng dạng đơn giản hơn, td. sử dụng hai (2) âm tiết như Elizabeth thì ghi là Sa
ve (các bản Nôm của Maiorica kí âm là I Sa Mã/Ve 衣 沙 瑪), Barnabas kí âm là Na bê
...v.v… Khuynh hướng đơn giản hoá 11 như trên cũng thường gặp trong STC và LQK, đây
cũng là một tiêu chí quan trọng để xác định 'niên đại' của các bản chữ quốc ngữ này - tuy
nhiên không thuộc phạm vi bài viết nhỏ này. Truyện bằng thơ lục bát INV cho thấy vào đầu
TK 18 chữ thời không có mặt ở Đàng Trong so với chữ thì.
2.4 Vần thì và thời trong STC và LQK
Bản chép tay chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca (STC) có 3604 câu theo thể lục bát, còn bản chép
tay Lập Quốc Kinh (LQK) có 1632 câu. Tổng số chữ thì dùng là 83 lần so với vần thì xuất
hiện 21 lần. Tổng số chữ thời dùng là 22 so với vần thời xuất hiện 46 lần.
Vần thì trong STC từ câu 2622 đến 2624 (tức thì):
Nổi cơn giận dỗi chẳng cần xét suy (câu 2622)
Bắt đem tống ngục tức thì
Du-tiệp bình tĩnh bước đi vào tù (câu 2624)
Vần thời trong STC từ câu 3070 đến 3072 (tức thời):
Nếu ai ăn cắp bắt đem tôi đòi (câu 3070)
Vô can thì thả đi xuôi
Các bao lớn nhỏ tức thời phanh phui (câu 3072)

Vần thì trong STC, trong đang thì, td. từ câu 1386 đến 1388:
Yến giao, Gia cước qua thời ấu nhi (câu 1386)
Yến giao trong tuổi đang thì
Rành tay săn bắn, giỏi nghề ruộng nương (câu 1388)
...
Nhưng lại có lúc dùng đang thời, hợp với các vần ngời, rồi:
Con ôi cha đến giờ sinh thì rồi (câu 3438 - bản chép tay của Paulus Tạo 12 )
Cầu trời phù hộ đang thời
Trở về đất tổ rạng ngời thỉ chung (câu 3440)
...
Sinh thì (nghĩa là qua đời, chết - từ thời VBL/PGTN) hiện diện trong STC (xem câu 3438
bên trên chẳng hạn, hay câu 1343 "Trăm bảy lăm tuổi sinh thì"). Tuy nhiên dạng sinh thời
cũng có mặt trong câu 1625 (hàm ý lúc sống, hoàn toàn trái nghĩa với chết):
Nhờ đây thiên hạ cầu yên cuộc đời (câu 1624)
Sinh thời công việc của ngươi
Tới đâu cũng có tay trời chở che (câu 1626)
...
Giả sử vần thì không thay đổi từ nguyên bản (nếu có), và vần thời hiện diện sau các sắc chỉ
kỵ huý vua Tự Đức - do đó 46 vần thời (cập nhật sau thời vua Tự Đức) tương ứng với 138
câu thơ thêm vào trong tổng số 5236 câu trong STC và LQK. Nếu kể thêm các chữ thời dùng
riêng thì tổng số các câu thơ thêm vào ít nhất là khoảng 3.1 %, đây là dựa vào tiêu chí "vần
thì - vần thời". Số câu dùng chữ thì và vần thì trong STC và LQK là 2.8 % so với số câu dùng
chữ thời và vần thời là 3.1 %. Vần thời trong STC và KLQ cho thấy khả năng cập nhật sau
các sắc chỉ kỵ huý tên vua Tự Đức, nhất là ở Đàng Ngoài khi còn chịu ảnh hưởng của triều
đình Huế. Ở Đàng Trong, có thể mất một thời gian nữa từ ngày Pháp xâm chiếm Nam Kỳ
Lục Tỉnh, để thấy ảnh hưởng sâu rộng của các lệnh kỵ huý trong ngôn ngữ đại chúng.
3. Tiểu kết cho phần 1
Vào TK 17, khi các giáo sĩ CG sang Á Đông truyền đạo thì toàn bộ Kinh Thánh (như cách
hiểu thời nay) không là chủ lực trong quá trình giảng giáo lý và thu nhập bổn đạo. Các tài liệu
chính quy vào giai đoạn này thường ngắn và gọn như Mười Điều Răn, Phép giảng căn bản
cho người muốn vào đạo (td. Phép Giảng Tám Ngày/de Rhodes), các điều cơ bản của Thiên
Chúa Giáo (td. Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông/Maiorica), cuộc đời đức Chúa Giê Su
hay Đức Mẹ Maria (Maiorica)...v.v... Có lẽ từ bối cảnh trên mà STC và LQK đã phôi thai.
Nếu còn các bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, thì ta được nhiều thông tin chính
xác hơn thay vì chỉ có các bản chép tay từ đầu TK 19. Dựa vào các bản chép tay bằng chữ
quốc ngữ, nhất là từ thể thơ lục bát, người viết đề nghị một tiêu chí để khảo sát chữ quốc ngữ
của STC và LQK: vần thì và vần thời cùng với chữ thì/thời 13 . Dĩ nhiên còn có các tiêu chí
khác cũng thú vị không kém như phương pháp kí âm tên người hay tên nước ngoài, khuynh
hướng thay đổi cách dùng/ngữ nghĩa (lịch đại), phương ngữ Đàng Trong ... Tuy nhiên các
tiêu chí trên không nằm trong phạm vi bài viết nhỏ này so với vần thì và vần thời. Chữ thì và
vần thì (không có vần thời) xuất hiện khoảng 4.9 % trong Thiên Nam Ngữ Lục, so với
khoảng 3.4 % trong Truyện Kiều. I Nê tử đạo vãn có khoảng 6.2 % chữ thì và vần thì. Chinh
Phụ Ngâm (theo thể song thất lục bát) có khoảng 2.2 % chữ thì và vần thì. Chữ thời và vần
thời xuất hiện khoảng 3.1 % trong các bản chép tay STC và LQK, so với chữ thì và vần thì là
khoảng 2.8 %. Điều này cho ta cơ sở giải thích các bản chữ quốc ngữ này đã được cập nhật
(thêm vào bản cũ hơn) sau thời vua Tự Đức, phù hợp với ghi nhận về công lao chỉnh sửa bản
cũ của LM Phao Lô Qui (1885) từ Paulus Tạo. Hi vọng bài viết này là một động lực và gợi ý
cho người đọc tìm hiểu sâu xa về STC và LQK, cũng như khám phá nhiều kết quả thú vị hơn
về chữ quốc ngữ, ngay từ thuở bình minh trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại.
4. Tài liệu tham khảo chính
1) Pigneau de Béhaine (1772/1773) – Bá Đa Lộc Bỉ Nhu “Dictionarium Annamitico-
Latinum” Dịch và giới thiệu bởi Nguyễn Khắc Xuyên, NXB Trẻ (Thành Phố HCM – 1999).
2) Philiphê Bỉnh (1822) “Sách Sổ Sang Chép Các Việc” NXB Viện Đại Học Đà Lạt, 1968.
                           (1822) “Phép Giảng Tám Ngày”, “Truyện nước Anam Đàng trong quyển
nhị”. Các tài liệu viết tay khác của chính tác giả còn lưu trữ trong thư viện tòa thánh La Mã.
3) Jean Bonet (1899);Dictionnaire annamite-français : langue officielle et langue vulgaire;
có thể tham khảo trên trang này https://www.lexilogos.com/vietnamien_dictionnaire.htm
4) Huỳnh Tịnh Của (1895-1896);Đại Nam Quấc Âm Tự Vị; Tome I, II - Imprimerie REY,
CURIOL & Cie, 4 rue d'Adran (SaiGon).
5) J. F. M. Génibrel (1898) “Dictionnaire annamite français” Imprimerie de la Mission à Tân
Định (SaiGon).
6) Hội Khai Trí Tiến Đức – ban văn học (1931/1954) “Việt Nam Tự Điển” NXB Trung Bắc
Tân Văn (Hà Nội).
7) Nguyễn Quang Hồng (2015) “Tự điển chữ Nôm dẫn giải” Tập 1 và 2 – NXB Khoa Học
Xã Hội/Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm (Hà Nội).
8) Nguyễn Lương Ngọc/Đinh Gia Khánh (1958) "Thiên Nam Ngữ Lục" phiên âm, chú thích
và giới thiệu - NXB Văn Hoá (Hà Nội).
9) Alexandre de Rhodes (1651) “Phép Giảng Tám Ngày” – Tủ Sách Đại Kết in lại từ Tinh
Việt Văn Đoàn (1961 – Sài Gòn) với phần giới thiệu của tác giả Nguyễn Khắc Xuyên.
                                    (1651) “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” thường
gọi là từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính –
NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố HCM (1991).
                                   “Tường Trình về Đàng Trong 1645” bản dịch của Hồng Nhuệ, NXB
Ánh Sáng Publishing, Escondido (California/Mỹ, 1994?).
                                   “Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm 1646” dịch giả
Nguyễn Khắc Xuyên – Tủ sách Đại Kết, Thành phố HCM (1994).
10) Jean Louis Taberd (1838) – tên Việt là cố Từ – “Dictionarium Annamitico-Latinum”
Serampore (Bengale) và cuốn tự điển La Tinh – Việt (Dictionarium Latino-Annamiticum -
completum et novo ordine dispositum - 1838).
11) J. S. Theurel (1877) “Dictionarum Anamitico-Latinum” LM Theurel ghi nhận LM
Taberd khởi thảo và ông cố tình ‘bổ sung’ ngay trong cách giới thiệu trang đầu, (td. hàm ý
các cách dùng Đàng Ngoài khác với Đàng Trong/NCT) – Ninh Phú (Đàng Ngoài).
12) Nguyễn Cung Thông (2013);Tản mạn về từ Hán Việt - phần 6.2; có thể tham khảo toàn
bài trên trang này chẳng hạn http://e-cadao.com/ngonngu/tanmantuhanvietthoithi.htm ...
13) Đào Quang Toản (2023);Linh mục Louis Đoan và Sấm Truyền Ca; có thể đọc toàn bài
trên trang https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/linh-muc-louis-doan-v-sam-truyen-ca/ …

15
14) Tủ Sách Nước Mặn và Học Viện Công Giáo (2023);Sấm Truyền Ca - ấn phẩm đối
chiếu để phục hồi nguyên bản; dạng pdf = có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như
https://vietcatholic.net/Media/Bible%20in%20vietnamese%20poetry%20synoptically%20vi
ewed.pdf …v.v…
15) Pierre-Gabriel Vallot (1898) “Dictionnaire franco-tonkinois illustré” NXB F.H.
Schneider (Hà Nội).
                                         (1905) “Grammaire Annamite à l’Usage Des Français de l’Annam
Et Du Tonkin” Imprimeur-Éditeur F. H. Schneider, HaNoi.
Phụ Trương
1. Truyện Nôm Trinh Thử (khuyết danh)
Ta thử dùng tiêu chí 'vần thì - vần thời lục bát' cho Truyện Trinh Thử 14 để xem kết quả ra sao.
Truyện Trinh Thử chữ Nôm có 566 câu thơ lục bát và 2 bài thất ngôn Đường luật. Có tất cả
13 chữ thì, 5 chữ thời và 8 vần thì (không có vần thời), thí dụ như
Là Hồ sinh vốn thiện danh đang thì (câu 4)
Nhiều bề cách vật trí tri
Tiếng muông chim lại hay suy nên lời (câu 6) ...v.v...
Vần -ì còn hợp với các vần -ê, -ia (độ mở miệng nhỏ) - so với các vần như -ời (đời, mời,
người ...) cũng hiện diện trong cùng một văn bản. Điều này hỗ trợ cho khả năng Truyện Trinh
Thử được soạn trước thời vua Tự Đức, phù hợp với nhận xét của một số học giả tiền bối như
Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ cho rằng truyện này soạn vào thời trước nhà Nguyễn (td. hậu Trần
...). Tuy nhiên theo nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh thì truyện này có gốc là một tác phẩm văn
xuôi chữ Hán tên là "Đông thành trinh thử truyện" vào hậu bán TK 19, tác giả có thể là một
danh sĩ cùng thời 15 . Một số người lại cho rằng truyện này do Nguyễn Hàm Nghi (em ruột
Nguyễn Hàm Ninh) ở Quảng Bình viết vào thời thực dân Pháp mới sang …vv...
2. Chinh Phụ Ngâm (Khúc) - Đoàn Thị Điểm (1705-1746/1748) diễn Nôm từ thơ chữ
Hán của Đặng Trần Côn (khoảng 1710 - 1745).
Chinh Phụ Ngâm có 412 câu song thất lục bát cho thấy chữ thì xuất hiện 6 lần, so với vần thì
xuất hiện 1 lần trong các câu 374, 375 và 376:
Sức tý dân tiêu sắt tri tri (câu 374)
Máu Đan Vu đầu Nguyệt Thị 16 ,

14 Tham khảo tài liệu này trên mạng như https://www.thivien.net/H%E1%BB%93-Huy%E1%BB%81n-
Quy/Trinh-th%E1%BB%AD/group-hO9juuRluY7HT0JCMU0PBA
15 Người viết (NCT) vẫn còn tra cứu thêm các dữ kiện hỗ trợ cho khả năng Truyện Trinh Thử lại xuất hiện vào
hậu bán TK 19 ???
16 Một số tác giả phiên Nôm câu này là;Máu Thiền vu quắc Nhục Chi;.
Ấy thì buổi uống, ấy thì buổi ăn (câu 375)
…v.v…
Vần thì cho thấy bài thơ Nôm (nguyên bản, chưa bị 'nhuận sắc' sau này) viết trước thời vua
Tự Đức. Một điểm đáng chú ý về vần thì trong bản chữ Hán, cũng như đã ghi nhận trong mục
2.1 Thiên Nam Ngữ Lục, trong bản phiên âm chữ quốc ngữ - các tác giả Viện Việt Học 17 đã
ghi là thời trong câu 222 (xem bản chụp lại ở bên dưới) thành ra lạc vận! Đáng lẽ phiên là thì
mới hợp vận (hợp vần với y, nghi, khi, si ...). Câu 413 "Trì liên diệc hữu tịnh đầu thời": nên
phiên là thì để hợp với các vần vi, ty, tri ...v.v...

3. Chúa Thao Cổ Truyện
Truyện thơ Nôm theo thể lục bát, không rõ tác giả và năm in, nhưng cốt truyện thì dựa vào
giai đoạn lịch sử của chiến tranh Trịnh-Mạc từ năm 1592 đến năm 1677, khi nhà Mạc hoàn
toàn bị dẹp. Tuy là hư cấu nhưng Chúa Thao Cổ Truyện (tắt là CTCT) có nhiều dữ kiện phù
hợp với lịch sử giai đoạn này. CTCT 18 có 478 câu thơ lục bát, các cách dùng cho thấy khả
năng soạn trong khoảng TK 18. CTCT có 1 chữ thì và 33 chữ thời (đáng lẽ là thì), 2 vần thì
và 6 vần thời (đáng lẽ là thì). Các cách dùng vần thì và chữ thì 時 时 cho thấy khả năng
CTCT soạn trước thời vua Tự Đức. Thí dụ một đoạn dưới đây cho thấy là vần thì hợp vận
hơn so với vần thời (trang 8 - bản chụp lại từ bản sao của Maurice Durand để lại cho thư viện
đại học Yale).
B1 = gì, B2 = kì, B3 = thời (đáng lẽ là thì mới hợp vận).

Nguyễn Cung Thông
Nghiên cứu ngôn ngữ độc lập ở Melbourne (Úc) – email nguyencungthong@gmail.com

Chú thích:
1. Nghiên cứu ngôn ngữ độc lập ở Melbourne (Úc) – email nguyencungthong@gmail.com
2. Đang/đương thì 當時 cũng xuất hiện trong các tài liệu của LM Maiorica, như trong ĐCGS quyển chi cửu
trang 23 khi viết về cuộc đời Đức Chúa Giê Su: "chẳng để sống cho đến già, chết khi đang thì mà chữa kẻ liệt
đã" hay trong Các Thánh Truyện Tháng Hai trang 116 (Maiorica) "Người chịu đòn cùng sự thương khó nhiều
ngày hơn kẻ đang thì, mà chịu bằng lòng mạnh sức" ...v.v... Cụ Huỳnh Tịnh Của ghi đang thì là thì xuân xanh
(ĐNQATV) cũng như Taberd/Béhaine (định nghĩa juventus/L là tuổi xanh) nhưng thêm một nét nghĩa nữa là
hiện thời (~ đương thời - trong tiếng Việt hiện đại). Đang thì nghĩa là ngay bây giờ hay ngay lúc đó trong tiếng
Trung Hoa (dum/L), tương đương với cách dùng đang khi của tiếng Việt vào thời VBL cho đến ngày nay.
5. Tham khảo thêm "Chữ Húy Việt Nam Qua Các Triều Đại" GS Ngô Đức Thọ - NXB Văn Hoá 1997. Theo học
giả Paul Schneider trong cuốn "Dictionnaire Historique Des Ideogrammes Vietnamiens" (NXB Universite de
Nice-Sophia Antipolis, 1990 - trang 795)  đề nghị rằng chữ thời thay thế cho thì từ năm 1860, dựa vào lệnh kỵ
huý của vua Tự Đức (Theurel cũng ghi năm này - xem hình chụp trang 4 trong bài).
6. Tham khảo các bài viết về chữ thì cùng tác giả (NCT) “Tiếng Việt từ TK 17: các cách dùng trống một,
giữ/cầm canh, nhà điếm/ dỏ, trắc ảnh, thì - giờ” (phần 42), hay các khái niệm văn hoá/truyền thống về thời gian
như đơn thì - đa thì trong bài viết "Tản mạn về từ Hán Việt thì - thời (phần 6.2)" trên trang này chẳng hạn
https://dotchuoinon.com/2013/05/27/tan-man-ve-tu-han-viet-thoi-thi-phan-6-2/ …v.v…
7. Một số địa danh vì kỵ huý nên thay đổi rất sớm (so với chữ quốc ngữ thì - thời) như Thì Trung trở thành
Phương Trung (năm Tự Đức thứ 1/1847) - trích từ bài viết của TS Nguyễn Thuý Nga TÌM HIỂU VIỆC ĐỔI
ĐỊA DANH Ở TỈNH HÀ NỘI THỜI NGUYỄN QUA LỆ KIÊNG HÚY - Tạp chí Hán Nôm, Số 4(101) 2010;
Tr.62-71.
8. Dầu rằng trong các bản Nôm Truyện Kiều có vài chữ kỵ huý như thì có khi viết là ��, nhưng dễ giải thích - là
vì bản Nôm (td. 1870 - bản Kinh đời Tự Ðức) đã được ‘nhuận sắc’ hay sao chép lại vào thời này.
9. Tuy nhiên có vài đoạn 'biến thể' như dùng thơ 7 chữ (song thất), hay vài câu chỉ có hai chữ/thơ gởi cho nhau...
10. Tham khảo tài liệu này trên mạng như trang này
https://commons.wikimedia.org/w/index.php?title=File:Dictionarium_Latino-Anamiticum.pdf&page=943 …
11. Thí dụ các tên nước như Pha Lang Sa (Pháp Lan Tây) > Pháp quốc > Pháp, Ý Đại Lợi (Ý Đại Lí Á)> Ý,
Nhật Bản > Nhật, America > Mỹ quốc/châu > Mỹ ...v.v... STC ghi Aegyptus (Ai Cập) là Ê Giếp > Giếp so với
cách ghi I Chi Tô 衣 支 蘇 (chữ Nôm thời Maiorica) - nước Ychitô > Ai Cập; STC kí âm Bethlehem là Bảo-
liêm có hai âm tiết, chữ Nôm Maiorica ghi là Bát Li Âm 八离陰 …v.v…
12. Bản Nguyễn Văn Nhạn ghi câu 3439 là “Cầu trời phù hộ hưng thời”.
13. VBL không có mục thì (nhưng có mục giờ với nhiều chi tiết), tuy nhiên chữ thì xuất hiện 14 lần. So với Bản
Báo Cáo về tiếng an Nam hay Đông Kinh (BBC) có đến 28 lần dùng thì. PGTN có 1035 chữ thì hay khoảng
1.9 % cho tổng số chữ.
14. Tham khảo tài liệu này trên mạng như https://www.thivien.net/H%E1%BB%93-Huy%E1%BB%81n-
Quy/Trinh-th%E1%BB%AD/group-hO9juuRluY7HT0JCMU0PBA
15. Người viết (NCT) vẫn còn tra cứu thêm các dữ kiện hỗ trợ cho khả năng Truyện Trinh Thử lại xuất hiện vào
hậu bán TK 19 ???
16. Một số tác giả phiên Nôm câu này là "Máu Thiền vu quắc Nhục Chi".
17. Tham khảo toàn bản Hán văn và Hán Việt trang này chẳng hạn chrome-
extension://efaidnbmnnnibpcajpcglclefindmkaj/https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/b/b9/%E5%
BE%81%E5%A9%A6%E5%90%9F%E6%9B%B2.pdf
18. Có thể tham khảo toàn bài trên trang này chẳng hạn https://findit.library.yale.edu/catalog/digcoll:14815...v.v..

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin cũ hơn

Luong truy cap
Ngày sinh Bác Hồ
134 NĂM
NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (19/5/1890-19/5/2024)

 
50 năm đại thắng mùa xuân
30/4 -  NGÀY HÒA BÌNH
THỐNG NHẤT NON SÔNG


 
70 năm Điện Biên Phủ
70 NĂM CHIẾN THẮNG
ĐIỆN BIÊN PHỦ
50 năm Di chúc
“Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm
Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh”
TỔ QUỐC TRÊN HẾT
LƯỢT TRUY CẬP TỪ 23-12-2016
  • Đang truy cập75
  • Máy chủ tìm kiếm11
  • Khách viếng thăm64
  • Hôm nay30,720
  • Tháng hiện tại914,531
  • Tổng lượt truy cập56,105,992
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây